Basíleios II (
tiếng Hy Lạp: Βασίλειος Β΄;
958 –
15 tháng 12 năm
1025), còn gọi là
Basíleios Porphyrogenitus (
tiếng Hy Lạp: Βασίλειος πορφυρογέννητος, chuyển tự Basíleios porphyrogennētos), hoặc
Basíleios Trẻ (
tiếng Hy Lạp: Βασίλειος ὁ νέος, chuyển tự Basíleios ho néos) để phân biệt với ông kỵ là
Basíleios I xứ Macedonia, là
hoàng đế Đông La Mã từ ngày
10 tháng 1 năm
976 tới ngày
15 tháng 12 năm
1025. Ông ta là hoàng đế cai trị lâu nhất trong lịch sử
Đông La Mã, được coi là người đưa nhà nước này lên tới "thời kỳ hoàng kim".Thời kỳ đầu làm vua, Basíleios II lo đánh dẹp những quý tộc chống đối ở
Tiểu Á của những nội chiến chống những năm tháng làm vua đầu tiên của ông chứng kiến một cuộc nội chiến dai dẳng chống những quyền thần gốc gác quý tộc ở vùng
Tiểu Á. Được sự giúp sức của
Gruzia, Basíleios đến năm 989 đã thu phục được Tiểu Á. Sau đó Basíleios II tập trung tiến hành xâm lược, bành trướng về phía Đông. Các năm 992-998, Basíleios đánh
nước Fatima nhưng không thắng. Năm 1000, Basíleios đánh
Bulgaria, đối thủ đáng gờm nhất của Đông La Mã ở
Đông Âu. Năm 1014, Basíleios dẫn quân giao chiến, đánh bại vua Bulgaria
Samuil ở
Kleidon. Sau đó Basíleios chọc mù các tù binh Bulgaria làm Samuil buồn chết.
[1] Vì lẽ đó, người đời sau gọi Basíleios là "
Kẻ giết người Bulgaria" (
tiếng Hy Lạp: Βουλγαροκτόνος, chuyển tự Boulgaroktónos). Đến năm 1018 Basíleios đánh quỵ hoàn toàn Bulgaria, sáp nhập vào La Mã. Năm 1021-1022, Basíleios đánh Gruzia, thắng 2 trận, lấy được đất Tao, Phasiane, Kola, Artaan và Javakheti. Sau khi ông ta chết, bờ cõi Đông La Mã trải dài từ miền Nam
Ý cho
Kavkaz và từ
sông Donau tới biên giới
Palestine, đây là lãnh thổ rộng nhất mà Đông La Mã có được kể từ khi bị quân
Ả Rập xâm lược 4
thế kỷ trước.Không chỉ nổi tiếng với chính sách bành trướng đầy tham vọng, Basíleios II điều hành việc nước khá trôi chảy, cắt giảm quyền lực của các gia đình đại địa chủ chi phối hành chính, quân sự Đông La Mã. Kinh tế thời này phát triển rất mạnh. Basíleios có một quyết định để lại ảnh hưởng lâu dài, đó là gả em là Anna cho đại vương công
Vladimir I xứ Kiev[2] để xin chi viện quân sự của Kiev, dẫn đến
việc Ki-tô giáo hóa nước
Nga Kiev và truyền bá văn hóa Đông La Mã vào Nga.